Tháng 6/2013 được ghi nhận là tháng có khối lượng trái phiếu bán ra trên thị trường mới nổi thấp nhất kể từ tháng 12/2008
Ảnh minh họa Kể từ sau cuộc khoảng hoảng tài chính toàn cầu năm 2008-2009, các nền kinh tế tương đối mạnh ở Đông Nam Á đã cuộn được những dòng vốn đầu tư nước ngoài rất lớn.
Indonesia và các nền kinh tế lớn ở Đông Nam Á đều không có nguy cơ rơi vào cuộc khủng hoảng thanh khoản trong tương lai gần bởi các nhà hoạch định chính sách ở những nước này vẫn chưa quên cuộc khủng hoảng tài chính ở châu Á năm 1997-1998 và đã tích lũy được nguồn dự trữ ngoại tệ khá lớn.
So với 16 năm về trước cân bằng tài khoản vãng lai của Hàn Quốc đã chuyển từ thâm hụt 1,6% GDP trong năm 1997 sang thành thặng dư 5,1% GDP hiện. /. FED mới chuẩn bị thắt chặt chính sách nới lỏng tiền tệ, dòng vốn chạy khỏi thị trường mới nổi và các chỉ số chứng khoán giảm đã mạnh nhất kể từ cuộc khủng hoảng tài chính năm 2008. Ở thời khắc hiện giờ, nợ nước ngoài của những nước này cũng ít hơn nhiều so với trước đây, trong đó Malaysia có mức nợ nước ngoài lớn nhất, tương đương với 33,2% GDP.
Mới chỉ là đồn đoán, nhưng dòng vốn đổ vào các thị trường cổ phiếu và trái phiếu đã đổi hướng. Tác động có thể chỉ là các công ty bất động sản của Trung Quốc vay nợ nước ngoài bằng đồng USD trong những năm gần đây để tận dụng phí vay vốn giá rẻ. Điều này có tức là phí trả nợ vẫn nằm trong tầm kiểm soát mặc dầu tỷ giá hối đoái thấp sẽ khiến cho tổn phí trả nợ nước ngoài tăng lên. Cụ thể là dòng vốn đầu tư đổ vào Indonesia, Malaysia, Philippines, Singapore và Thái Lan đã tăng từ 22,5 tỷ USD năm 2009 lên 58,3 tỷ USD một năm sau đó.
Theo số liệu của nhà băng Boursorama, từ ngày 1/1 đến ngày 21/8/2013, chỉ số CAC 40 của Thị trường Chứng khoán Paris tăng hơn 10%, trong khi chỉ số Dow Jones của Mỹ tăng 13% và chỉ số Nikkei của Nhật Bản tăng gần 30%.
Tính từ đầu tháng Sáu đến nay, tổng giá trị trái khoán cũng như cổ phiếu mà chính phủ các nước và công ty phát hành trên thị trường mới nổi chỉ đạt khoảng 42,4 tỷ USD, giảm mạnh so với cùng kỳ năm 2012 (95,1 tỷ USD trong ba tháng 6, 7 và 8/2012). Không chỉ riêng châu Á, lục địa đen cũng hưởng lợi không nhỏ.
Trong khi xuất khẩu sang Hiệp hội ASEAN và Ấn Độ chiếm khoảng 8,1% tổng kim ngạch xuất khẩu của Trung Quốc, phần đông hàng hóa xuất khẩu của Trung Quốc là các mặt hàng cần yếu vốn ít mẫn cảm với sự đi xuống theo chu kỳ.
Ở các nền kinh tế phát triển trên thế giới, các nhà băng trung ương đã hạ lãi suất xuống mức rất thấp, buộc các nhà quản lỹ quỹ đầu tư muốn có lợi nhuận nhiều hơn phải chuyển hướng sang các nền kinh tế mới nổi ở châu Á. Dự trữ ngoại hối cũng tăng mạnh lên 28,5% GDP hiện thời từ mức chỉ có 4% GDP vào năm 1997. Công ty nghiên cứu CIMB cho rằng nỗi lo sẽ được chứng minh là thái quá khi các nền móng ở châu Á đã chắc chắn hơn trước khi xảy ra cuộc khủng hoảng tài chính châu Á năm 1997 và cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu năm 2008.
Huyền Nhung. Sự sụt giảm của một số đồng bạc rất mạnh, trong đó đồng rupee Ấn Độ để mất tới 19,5% giá trị chỉ trong vòng ba tháng và rơi xuống mức thấp kỷ lục 65,56 rupee/USD trong ngày 22/8. Dù rằng nguồn vốn đầu tư nước ngoài vào những nước này có giảm trong năm 2011 do các nhà đầu tư lo ngại về cuộc khủng hoảng nợ công ở Khu vực đồng bạc chung châu Âu (Eurozone), nhưng các đồng tiền ở Đông Nam Á vẫn mạnh, tăng làng nhàng 5,1% so với đồng USD.
Tình hình hiện thời không giống như những gì từng xảy ra trong cuộc khủng hoảng tài chính châu Á cuối thập niên 1990.
Dòng vốn đầu tư vào châu Á cũng được mở rộng nhờ các ngân hàng trung ương các nước phát triển khai triển các chương trình nới lỏng định lượng (QE), khiến các nhà đầu tư dễ dàng tiếp cận nguồn vốn lãi suất thấp ở những nước này. Còn về lâu dài, các nền kinh tế này sẽ phải xúc tiến kế hoạch canh tân và hoạch định chính sách tài chính - tiền tệ hợp để có thể bắt kịp những nước phát triển.
Liệu tâm lý thị trường nợ nước ngoài có đổi thay do làn sóng bán tháo đang diễn ra tại các nền kinh tế đang nổi châu Á, tái cấp vốn có thể trở thành khó giải quyết hơn. Tình trạng thoái vốn trở nên mạnh mẽ hơn sau khi biên bản cuộc họp mới nhất của FED càng củng cố cho đồn đoán quy mô chương trình sẽ bị thu hẹp ngay từ tháng Chín.
Nhưng rồi những tín hiệu sáng hơn từ nền kinh tế Mỹ đã làm dấy lên đồn đoán trái chiều về mạng của chương trình kích thích kinh tế của FED.
Nguồn dự trữ ngoại tệ của những nước này đủ để tính sổ cho hàng hóa nhập khẩu trong vòng sáu tháng, thậm chí lên tới 13 tháng đối với Philippines. Ngay từ năm ngoái, điều này đã được biểu thị qua việc đồng rupiah của Inđônêxia mất giá 6,6% so với đồng USD, trong khi các đồng nội tệ của Thái Lan và Malaysia cũng giảm nhẹ.
Tuy nhiên, các nước khác cũng sẽ cảm nhận thấy sức nóng càng ngày càng tăng trên thị trường tài chính - tiền tệ.
Một đôi tháng trước đó, Zambia đã gặt hái thành công nhiều hơn với 750 triệu USD. Còn đồng real của Brazil cũng tuột duốc không phanh, rơi xuống 2,4282 real/USD, mức chưa từng có kể từ tháng 3/2009. Dù cho FED chưa có động tĩnh gì, nhưng các quỹ đã "chảy ngược" trở lại phương Tây, nhất là Mỹ, được diễn tả ở chỗ các chỉ số chứng khoán ghi điểm mạnh ở các nước phát triển, nhưng lại giảm mạnh tại các nền kinh tế mới nổi.
Tương tự như vậy, các trọng tâm tài chính ở các nước đang phát triển đã được hưởng lợi từ dòng vốn phương Tây. Credit Suisse Research tin rằng tác động từ Ấn Độ và Indonesia tới các nền kinh tế Đông Bắc Á là Trung Quốc và Hàn Quốc cũng sẽ rất hạn chế. Bà Lagarde cho rằng việc các nền kinh tế phát triển dừng chính sách nới lỏng tiền tệ sẽ làm chậm đà tăng trưởng của các nền kinh tế mới nổi, từ đó ảnh hưởng tới tăng trưởng của kinh tế toàn cầu.
Tình trạng thoái vốn khỏi các nền kinh tế mới nổi đã làm dấy lên quan ngại về một cuộc khủng hoảng rưa rứa như những gì đã xảy ra ở châu Á vào năm 1997. Phát biểu tại hội nghị các thống đốc ngân hàng trung ương do FED tổ chức tại Jackson Hole, Wyoming (Mỹ) cuối tuần qua, Tổng giám đốc IMF Christine Lagarde cảnh báo các nhà băng trung ương lớn trên thế giới không nên rút các biện pháp tương trợ nền kinh tế quá sớm.
Bà chỉ ra rằng chính sách bơm tiền ở các nền kinh tế phát triển đã phóng đại giá tài sản và làm tăng dòng chảy vốn vào các nền kinh tế mới nổi nên khi dòng tiền này bị rút ra sẽ gây ra những rủi ro nghiêm trọng và các nước đối phó bằng việc phát triển các phương tiện kiểm soát dòng tín dụng.
Dù cho làn sóng thoái vốn đã phần nào chững lại, nhưng các thị trường đang nổi vẫn đối mặt nhiều thách thức và phải mau chóng có giải pháp trước mắt để sớm bình ổn tình hình.
Chương trình mua trái khoán trị giá tới 85 tỷ USD mỗi tháng của FED đồng hành với lãi suất gần như bằng không đã thực thụ trở thành phao cứu sinh cho các thị trường nước ngoài bởi đa số trong số đó đã "chảy" vào các nền kinh tế mới nổi. Mức tăng tỷ giá ở khu vực này đã vấn các nhà đầu tư quay trở lại trong năm 2012 khi mà tổng vốn đầu tư nước ngoài đổ vào tăng lên 61,4 tỷ USD.
Trong khi đó, chỉ số Bovespa của Braxin giảm 17%, RTS của Nga giảm 15% và chỉ số BSE của Ấn Độ giảm 8%.
Tốc độ mất giá của đồng baht Thái, rupiah Indonesia hay ringgit Malaysia cũng gia tăng trong những tháng gần đây. Giới đầu tư và các nhà phân tích cảnh báo rằng những nước có thâm hụt trương mục vãng lai lớn sẽ đối mặt với nhiều rủi ro vào thời điểm mà Mỹ chấm dứt chương trình nới lỏng định lượng (QE). Trong cuộc khủng hoảng tài chính châu Á năm 1997 đồng baht mất giá ở Thái Lan đã gây ra phản ứng dây chuyền đối với các đồng tiền yếu, làm thị trường chứng khoán tuột dốc và nợ tư nhân tăng chóng mặt ở khắp các nền kinh tế Đông Nam Á và Hàn Quốc, đẩy phần nhiều các nền kinh tế chìm sâu vào suy thoái.
Trong tháng Năm vừa qua, vốn đầu tư nước ngoài của Ruanđa đã tăng 400 triệu USD, trong khi Tandania tăng thêm được 600 triệu USD. Credit Suisse Research cũng lạc quan về tình hình Hàn Quốc. Giới đầu tư đang "tháo chạy" khỏi thị trường tài chính mới nổi, làm vỡ nhiều kế hoạch huy động vốn trong mùa Hè năm 2013. Tuy nhiên, các công ty nghiên cứu cho rằng các nền móng chắc chắn hơn ở hầu hết các nền kinh tế châu Á vào thời điểm này cho thấy những quan ngại đó bị bơm.
Đồng lira của Thổ Nhĩ Kỳ giảm giá khoảng 10% so với mức đỉnh hồi tháng Hai. Các đồng tiền của những nước này bị mất giá mạnh hơn khi từ cuối tháng Bảy lo ngại FED bắt đầu thu hẹp chương trình kích thích kinh tế lớn dần.