Tuy nhiên, theo nhà phân tích William Pesek tại Bloomberg , cảnh huống này lại giống năm 1994 hơn
Tính tự đắc này lại xuất hiện sau cuộc khủng hoảng 2008, khi châu Á tin rằng họ có thể độc lập với phương Tây. Năm đó, hệ thống nhà băng ốm yếu của Nhật Bản rót tới 100 tỷ USD vào 5 nền kinh tế chịu tác động mạnh nhất năm 1997.
Tỉ dụ cho sự tự đắc có thể dễ dàng tìm được tại châu Á. Chính phủ các nước cần đối mặt với sự thật. Nhiều nhà phân tích cho rằng châu Á có khả năng lặp lại cuộc khủng hoảng tài chính năm 1997. Pesek cho rằng châu Á sẽ không rơi vào khủng hoảng như năm 1997. Và dân số 1,3 tỷ người của Trung Quốc cũng càng ngày càng trở nên giàu có, trở nên thị trường béo bở cho cả thế giới.
Hệ thống tài chính hoàn toàn bị ngó lơ, các thương vụ đầu tư kém hiệu quả dần trữ và tình trạng tận dụng quan hệ để đưa người quen vào làm việc cũng tăng theo. Tuy nhiên, cải tổ tại nước này lại đang bị đình trệ, lạm phát tăng cao, tham nhũng tràn lan và các công ty hoạt động kém hiệu suất.
Trong cuộc khủng hoảng tài chính 1997, tiền tệ châu Á đều rơi tự do và thâm hụt tài khoản vãng lai cũng bùng nổ. Giới lãnh đạo Trung Quốc cũng sẵn sàng hành động để giữ tăng trưởng trên 7%. Thêm vào đó, nếu gửi gắm tài sản vào một nền kinh tế khác, như Trung Quốc chả hạn, tốt nhất bạn không nên chọn một nước đang phát triển có mô hình tăng trưởng có thể hết tác dụng bất kỳ lúc nào.
Pesek cũng cho rằng vấn đề đích thực của châu Á không nằm ở FED, mà là sự tự phụ của chính khu vực này.
Ấn Độ thường ứng xử như thể việc họ vươn đến tầm siêu cường là chẳng thể chối cãi. “Trong khi Mỹ được thế giới nhượng bộ về thâm hụt vãng lai và ngân sách, các nước mới nổi châu Á lại không may mắn như vậy”, Simon Grose-Hodge - Giám đốc chiến lược đầu tư khu vực Nam Á tại LGT Group (Singapore) cho biết.
USD tăng vọt năm 1994 đã khiến chính sách neo tỷ giá không thể duy trì và tiền tệ các nước lao dốc. Tổng thống Philippines - Benigno Aquino đã quên rằng tăng trưởng 7,8% chỉ có nghĩa khi ông có thể tạo ra nhiều việc làm.
Pesek cho rằng một trong những lý do khu vực này sẽ không rơi vào khủng hoảng 1997 là Nhật Bản. Đó là họ có thể sống thiếu người tiêu dùng Âu - Mỹ trong 4 hay 5 năm, nhưng để kéo dài nữa, họ cần có nền kinh tế nội địa tự tương trợ thật mạnh.
Trên thực tế, khi FED kết thúc chương trình nới lỏng định lượng và thị trường tín dụng thắt chặt, quốc gia giàu tiền mặt như Trung Quốc sẽ tìm cách lấp đầy khoảng trống đó để nâng cao quyền lực của mình trong khu vực. Ảnh: Financial Times Tuy nhiên, kịch bản trên khó có thể lặp lại. Sự dị biệt giữa năm 1997 và hiện tại còn lấn lướt cả sự tương đồng.
Tuy nhiên, tăng trưởng nhanh và sống sót qua khủng hoảng đã khiến sự kiêu ngạo của họ lại trỗi dậy.
Theo Pesek, tình hình châu Á hiện giống năm 1994, khi Chủ tịch FED thời đó - Alan Greenspan nâng gấp đôi lãi suất cơ bản 12 tháng, khiến hàng trăm tỷ USD rút khỏi thị trường trái phiếu khu vực, châm ngòi cho cuộc khủng hoảng tài chính 1997. Các nhà hoạch định chính sách chỉ mê mải ký duyệt dự án FDI, dự các lễ cắt băng khánh thành nhà máy hay tòa nhà chọc trời, và chúc tụng nhau khi cổ phiếu tăng giá.
Dòng tiền nóng ào ạt chảy vào hồi thập niên 90 đã khiến châu Á tăng trưởng quá dễ dàng. Vì vậy, khi các ngân hàng Nhật ngừng cho vay, cuộc khủng hoảng càng trở thành trầm trọng. Ở Indonesia, Tổng thống Susilo Bambang Yudhoyono dường như đã quên rằng ổn định chính trị chỉ hiệu quả nếu tham nhũng được giải quyết.
Thủ tướng Thái Lan - Yingluck Shinawatra quá bận rộn với hiến pháp mà không nhận ra bong bóng nợ của các hộ gia đình. Quờ quạng tiền tệ các nước mới nổi đều lểu đểu, nặng nhất là rupee của Ấn Độ.
Khủng hoảng đến ngay sau thời kỳ tăng trưởng kinh tế ấn tượng. Trái khoán châu Á trở thành nơi trú ẩn an toàn so với châu Âu. Thùy Linh. Châu Á xứng đáng được hưởng lợi sau cả bước tiến dài từ năm 1997, Pesek nhận định. Còn ở Malaysia, Thủ tướng Najib Razak quá tụ tập củng cố quyền lực mà không để ý tài khoản vãng lai đang tiến tới thâm hụt.
Và khi chỉ còn 9 tháng nữa là bầu cử, chẳng ai kỳ vọng họ sẽ có biện pháp rắn rỏi để đổi thay nền kinh tế. Việc này đã khiến lãi suất trái khoán Chính phủ Mỹ tăng vọt và hàng tỷ USD rút khỏi các thị trường mới nổi để chảy vào Mỹ nhằm hưởng lãi cao hơn. Hồi tháng 5, Chủ tịch Cục Dự trữ liên bang Mỹ (FED) – Ben Bernanke tuyên bố sẽ giảm quy mô gói kích thích.
Tuy nhiên, các doanh nghiệp ngày nay Nhật Bản đã vững mạnh hơn, Chính phủ đang thúc đẩy kinh tế phát triển, còn ngân hàng trung ương cũng sẵn sàng bơm thanh khoản nếu FED giảm kích thích.
Ngày nay, tỷ giá đã linh hoạt hơn, nợ ngoại tệ giảm, hệ thống ngân hàng vững mạnh, các nước châu Á ngồi trên cả núi dự trữ ngoại tệ, còn các nền kinh tế cũng minh bạch hơn rất nhiều. Căn nguyên là bùng nổ tín dụng từ các nguồn vốn từ nước ngoài được sử dụng thiếu kiểm soát, khi phần đông đổ vào bất động sản và chứng khoán.
Các nhà băng lũ lượt rời New York (Mỹ) và London (Anh) để tới Hong Kong (Trung Quốc) hay Singapore. Tuy nhiên, châu Á vẫn chưa hết hy vọng.