Lý Thánh Tông tên húy là Lý Nhật Tôn, lên ngôi ngày 01 tháng 10 năm Giáp Ngọ (1054), làm vua đến ngày Canh Dần, tháng Giêng năm Nhâm Tý (1072) thì khuất tại điện Hội Tiên, ở ngôi 18 năm, thọ 49 tuổi. Sử sách đánh giá ông là một trong những vị vua giỏi của triều Lý đã để lại nhiều dấu ấn trên các lĩnh vực chính trị, văn hóa và nông nghiệp, được sử sách đánh giá là vị vua “khéo kế thừa, tình thực thương dân, trọng việc làm ruộng, thương kẻ bị hình, vỗ về người xa, yên ủi người gần, đặt khoa Bác sĩ, hậu lễ dưỡng liêm, tu bổ việc văn, phòng bị việc võ, trong nước tĩnh, có thể gọi là bậc vua tốt” (Đại Việt sử ký toàn thư). Xung quanh cuộc thế của Lý Thánh Tông có nhiều câu chuyện lạ. Theo chính sử năm Kỷ Dậu (1069), vua thân chinh cùng Thái úy Lý Thường Kiệt mang quân đi đánh Chiêm Thành, chính trong chuyến đi này đã xảy ra hai câu chuyện kì ảo trên sông biển mà dã sử ca ngợi lại.
Tục truyền, khi đoàn binh thuyền của Lý Thánh Tông đến cửa biển Thần Phù (nay thuộc xã Yên Lâm, huyện Yên Mô, tỉnh Ninh Bình) thì gặp gió to sóng dữ, không đi được. Khi đó vua lên bờ thì thấy một tòa miếu cổ bên sông cầu đảo, hỏi chuyện quần chúng thì được biết miếu thờ một đạo sĩ có phép cao cường, thời trước giúp vua Hùng vượt biển nên được khi mất, vua Hùng cho lập đền thờ ở cửa biển, phong hiệu là “Áp Lãng Chân Nhân” (người dẹp yên được sóng dữ). Lý Thánh Tông liền vào đền cầu đảo xin giúp. Đêm đó thần báo mộng cho vua rằng: - Nhà vua có phúc lớn, tôi xin gìn giữ an toàn. Tương lai hãy cho tiến quân, chớ có lo sợ. Đêm hôm ấy gió bắt đầu lặng, đến sáng vua cho đoàn thuyền nhổ neo, ra đến ngoài khơi xa thì thấy những đợt sóng cao như núi, ai ai cũng kinh sợ nhưng thuyền bè vẫn êm đềm như không. Quan quân nhìn thấy một vị đạo sĩ người hạc tóc tiên đang đi trên mặt nước, lúc ở phía trước, lúc ở phía sau, đi đến đâu sóng yên đến đó. Khi thắng trận trở về, nhớ ơn thần phù trì, vua Lý Thánh Tông ban chiếu phong thêm mỹ tự cho thần 8 chữ là: “Thị uy, Phục viễn, thần công, đại vương”. Tiến sâu hơn nữa, đoàn quân đến được cửa Hàn thì lại gặp mưa lớn, sóng mạnh như muốn nhấn chìm đoàn chiến thuyền. Nhà vua lo lắng lo liệu, mệt quá gục xuống bàn thiếp đi. Trong lúc tơ tưởng, vua thấy một người con gái sắc khôn xiết xinh đẹp, đoan trang đến trước mặt mình nói: - Thiếp là thần ở nước Nam, thác sinh vào cây ở chốn mây nước này đã lâu. Nay gặp được bệ hạ nên rất lấy làm thỏa nguyện, biết Người đi đánh giặc, vậy xin theo phù giúp tới ngày thắng lợi sẽ lại đến bái yết. Nói xong thì biến mất. Nhà vua giật mình tỉnh dậy, kể lại cho triều thần nghe về giấc mộng của mình, có nhà sư hiệu là Huệ Lâm bước ra nói: - Vị thần đó nói thác sinh vào cây ở nơi mây nước, vậy xin thánh thượng cho người tìm quanh các đám cây, bụi cỏ ven sông này, biết đâu lại tìm được. Quân lính được cử đi tìm khắp trên bờ, dưới bãi sông, sau thấy một khúc gỗ rất giống hình một người con gái bèn mang về tâu trình. Vua nhìn thì thấy na ná dáng người gặp trong mộng bèn phong hiệu là thổ địa phu nhân rồi cho đặt khúc gỗ lên bàn độc trong thuyền rồng. Từ ấy sóng yên, biển lặng, đoàn thuyền đi nhẹ vun vút trên mặt nước. Trong trận chiến đánh giặc, như được phù giúp, quân nhà Lý tinh thần hăng hái, phá trận công thành thu được thắng lợi lớn. Trên đường dẫn quân trở về, khi đến bến sông cũ, Lý Thánh Tông sai dừng lại định cho lập đền thờ thần bên bờ sông. Đột nhiên lại thấy sóng cuộn, gió nổi ầm ầm. Nhà sư Huệ Lâm liền tâu: - Có nhẽ thần không thuận việc này, theo bần tăng thì chúa thượng nên rước khúc gỗ về Thăng Long dựng đền thờ ở trong kinh thành. Vua nghe vậy bèn nói: - Thần có công phù trì đại quân, nay ta sẽ theo lời của đại sư. Nhà vua vừa dứt lời thì tức tốc mây đen tan biến, sóng gió yên lặng. Ai lấy đều cho đó là điềm lạ. Khi về tới kinh kì, vua liền sai người chọn đất dựng đền thờ thần ở làng Yên Lãng và phong làm Hậu Thổ nguyên quân; dân gian thường gọi là bà Cây.
Ngôi đền rất linh ứng, cầu khấn rất ứng nghiệm. Đến đời Lý Anh Tông, trời làm hạn hán, dân bị thất bát, vua bèn lập đàn ở Nam Giao để tế trời, cầu thần làm chủ đàn, thần liền báo mộng cho nhà vua biết rằng có thần Câu Mang là quân bản bộ của thần chuyên lo việc làm mưa. Vua Lý Anh Tông rất vui liền sắc phong thần Câu Mang coi về mùa xuân, được xếp hàng ở bậc dưới Hậu Thổ nguyên quân, từ đó về sau phàm lễ mùa xuân rồi, phải đem con trâu bằng đất để ở dưới đền thờ; lỗ mãng ấy vẫn còn truyền mãi đến sau này. Bây chừ tại Hà Nội, nơi thờ chính ông công nguyên quân là đình Ứng Thiên ở phường Láng Hạ, quận Đống Đa; đình còn gọi là đình thổ địa, đình Nhà Bà. Còn trong tín ngưỡng dân gian, ở một số bài văn khấn đều có nhắc đến danh hiệu thổ công nguyên quân như văn khấn lễ hồi hoàn địa mạch. Như vậy vị thần này chính là thần Đất, sáchBáo Cựcchép rằng: Nguyên Quân tức là Nam Quốc Chủ Đại Địa Thần, hàng năm vào ngày 18 tháng 10 âm lịch có lễ cúng vì ngày này được coi là ngày hóa của Thánh Mẫu Địa. Qua các đời, thần đều được gia phong và được xác nhận là vị thần có công với dân. Một vài câu đối còn lưu ở đình đã nói lên điều này: Sơn mộc thê thần, trang phục đạm trang kinh đế mộng Hải môn hiển ứng, phong đào tinh thiếp hộ vương sư. Tức là: Gỗ rừng , tạc tượng thần trang điểm quần áo như trong mộng Cửa biển hiển thánh, dẹp yên sóng gió giúp thuận vua. Phong một khúc gỗ làm thần quả là một chuyện kỳ lạ ít ai hay trong số nhiều câu chuyện và giai thoại về hoàng đế Lý Thánh Tông, người được ca tụng là “bậc vua hiền nối đức” (Việt giám thông khảo tổng luận). Lê Thái Dũng |