Tăng cường thị trường TPCP cũng có thể giúp xây dựng thị trường trái phiếu DN
Một thị trường TPCP sôi động có thể giúp thị trường trái phiếu DN phát triển mạnh. Báo cáo Theo dõi trái khoán châu Á đánh giá hoạt động của các thị trường trái phiếu tại Trung Quốc, Hồng Kông, Indonesia, Hàn Quốc, Malaisia, Philippines, Singapore, Thái Lan và Việt Nam.
Các nhà phân tích tin đầu tư nước ngoài sẽ có tác động hăng hái trên thị trường, bởi những NĐT nước ngoài từng tham gia rất mạnh vào TTCK Việt Nam từ năm 2008. Sự tăng trưởng này được xúc tiến hoàn toàn bởi khu vực TPCP, trong đó bao gồm phát hành trái khoán ngân khố và trái phiếu của các DNNN. Tuy nhiên, nếu so sánh với quý trước, thị trường đã giảm 2,7% do tổng giá trị TPCP và TPDN tại thời khắc cuối tháng 9 đều thấp hơn tại thời điểm cuối tháng 6.
Khảo sát về độ thanh khoản hàng năm trong ít cho thấy, xét chung cả khu vực, tính thanh khoản của cả TPCP và TPDN đều có dấu hiệu hăng hái. Tuy nhiên, lạm phát cũng tương đối cao, ở mức hơn 7%. Nếu Việt Nam cải thiện được tình trạng này sẽ tăng sức quyến rũ của kênh đầu tư trái phiếu.
Trong những tháng gần đây, lợi suất trái khoán Việt Nam không ổn định, phản ảnh áp lực lạm phát và làm giảm nhu cầu đầu tư.
Nếu tỷ lệ đầu tư tối đa vào cổ phiếu được nới rộng hơn, liệu Việt Nam có thể lôi cuốn thêm dòng vốn ngoại không? ý kiến của các nhà phân tách cho rằng, việc giảm bớt những hạn chế về giới hạn sở hữu của NĐT nước ngoài và nâng tỷ lệ sở hữu từ 49% đến mức tối đa là 60% là một bước quan trọng để xúc tiến tăng trưởng của TTCK.
Lợi tức TPCP 10 năm của Việt Nam vào khoảng 9%/năm là cao nhất trong khu vực Đông Á mới nổi. Thưa mới nhất dự định sẽ công bố vào ngày 26/9/2013. Cuối tháng 9, Việt Nam có lượng trái khoán đang lưu hành có tổng giá trị 21 tỷ USD, tăng 21,4% so với thời điểm cuối tháng 9/2011. TTCK Việt Nam cho đến nay mới có thị trường giao du trái phiếu chính phủ (TPCP), chưa có thị trường giao du cho trái phiếu DN.
Khảo sát cũng cho thấy sự đa dạng của NĐT, chừng độ sẵn sàng của các phương tiện tự bảo hiểm và tính sáng tỏ là những vấn đề chủ chốt giúp xúc tiến hoạt động tại các thị trường trái khoán bằng đồng nội tệ ở các nền kinh tế Đông Á mới nổi.
Nếu ông hoặc khách hàng của các ông có nhu cầu đầu tư trái khoán, liệu các ông có chọn trái phiếu tại thị trường Việt Nam không, tại sao? Quyết định của NĐT khi đầu tư vào thị trường trái khoán của Việt Nam được dẫn dắt bởi nhận thức của họ về rủi ro và lợi nhuận thu được trong nước.
Cần những điều kiện nào để Việt Nam có thể xây một thị trường trái phiếu DN có sức cạnh tranh trong khu vực, theo ông? Để xây dựng một thị trường trái khoán cạnh tranh, Việt Nam cần hướng tới cải thiện tính đa dạng của các NĐT trái khoán, từ đó góp phần cải thiện thanh khoản, bằng cách khuyến khích việc kinh doanh giữa các NĐT với chừng độ rủi ro khác nhau.
Hiện tại, NĐT nước ngoài nắm giữ khoảng 20% thị phần thị trường trái khoán Việt Nam. Việt Nam có tiềm năng mạnh mẽ như một công xưởng, dân số lớn và đang phát triển cũng sẽ là những điểm cộng để cuộn các NĐT. Tốc độ phát triển của thị trường trái phiếu đồng nội tệ của Việt Nam gần như tăng gấp ba lần, từ 12,3 tỷ USD trong quý I/2010 lên 30,2 tỷ USD trong quý I/2013.
Thực tại này có gì dị biệt so với TTCK ở các nước châu Á khác? Thị trường trái phiếu đồng nội tệ của Việt Nam là một trong những thị trường trái khoán phát triển nhanh nhất trong khu vực Đông Á mới nổi trong những năm gần đây.
Ít Theo dõi trái phiếu châu Á (Asia Bond Monitor) mới nhất của nhà băng Phát triển châu Á (ADB) công bố cuối năm ngoái đã nhận định, thị trường trái phiếu bằng đồng nội tệ của Việt Nam có tốc độ tăng trưởng cao nhất trong số các nền kinh tế Đông Á mới nổi trong quý III/2012. Chính phủ Việt Nam đang coi xét khả năng nới rộng giới hạn sở hữu của NĐT nước ngoài trên thị trường cổ phiếu lên trên mức 49%, có thể là 60% hoặc hơn.
Luồng thông báo nhiều hơn và sáng tỏ hơn cũng có thể khuyến khích nhiều NĐT và các tổ chức phát hành dự thị trường trái khoán DN.