Các nhà phân tách cho rằng trong bối cảnh không cần thiết phải cuộn các luồng vốn đầu tư, nhiều quốc gia đã không tiến hành các biện pháp cần thiết để giảm các rào cản cho đầu tư, giảm nạn quan hoặc hạn chế sự thống trị của doanh nghiệp nhà nước
Đa phần các khoản nợ của các nền kinh tế mới nổi châu Á này ở dưới dạng nội tệ chứ không phải USD – đồng nghĩa với việc nội tệ giảm giá sẽ không tăng uổng trả nợ nước ngoài.
Các thay đổi dù là rất nhỏ như vậy cũng không phải được tiến hành thẳng thớm và cần phải được tăng tốc hơn nữa. Ông Frederic Neumann – đồng giám đốc bộ phận Kinh tế châu Á của HSBC tại Hong Kong cho biết: “Chừng nào các dòng vốn giá rẻ còn chảy vào thì sức ép cách tân cơ cấu còn yếu”. Phần nhiều trong 5 năm vừa qua, các nền kinh tế châu Á đã tận dụng lượng tiền đồ sộ đổ vào khu vực trong bối cảnh các nhà đầu tư đổ tiền vào khu vực này do lãi suất ở các nền kinh tế phương Tây trở nên quá thấp.
Hơn thế nữa, tăng trưởng kinh tế ở Nhật Bản đang dần trở nên sôi động sẽ có tác dụng bù đắp phần vốn thiếu hụt từ phương Tây.
Ông Neumann, kinh tế gia của HSBC cho biết: “Chúng ta mới chỉ chứng kiến các bước đi trước hết và tạm bợ, chưa đủ để xoay chuyển tình thế ở châu Á.
Đợt tháo chạy của các quỹ nước ngoài khỏi khu vực mới nổi của châu Á gần đây (do từ đầu tháng 5, Fed đã phát đi tín hiệu giảm bớt các biện pháp tương trợ nền kinh tế Mỹ) càng làm trội sự cần thiết phải tiến hành các thay đổi và có các hành động ngay tức khắc.
Tại nhiều nhà nước trong đó có Trung Quốc, các doanh nghiệp nhà nước hoạt động kém hiệu quả thường chiếm lĩnh các thị trường và gây khó khăn cho hoạt động của các công ty tư nhân có quy mô nhỏ hơn. Tiêu biểu là đầu tư vào ngành năng lượng của Ấn Độ đã không đủ để theo kịp nhu cầu điện của nhà nước này. Ấn Độ cũng như Indonesia gần đây đã tăng lãi suất – động thái có thể ảnh hưởng đến tăng trưởng kinh tế nhưng lại có tác dụng củng cố niềm tin của người dân vào đồng nội tệ.
Tuy nhiên nhiều nhà phân tách vẫn cho rằng đa phần các nền kinh tế đang phát triển trong khu vực cần tiến hành cách tân hơn nữa nhằm đảm bảo rằng các dòng vốn (đang ngày càng trở nên quan trọng với tăng trưởng của khu vực) tiếp chuyện chảy vào. Các nhà kinh tế châu Á thuộc Nomura ở Singapore cho biết: “Rủi ro mà chúng ta cần phải theo dõi chặt chịa là viêc liệu các dòng vốn mạnh có quay trở lại và làm giảm kỷ luật thị trường, cho phép các Chính phủ cũng như các nhà hoạch định chính sách tiếp thực hiện chính sách dân túy, các chính sách mở rộng có lợi cho tăng trưởng kinh tế và lãng quên các cải cách cơ cấu mặt cung”.
Tuy nhiên các vấn đề can hệ đến cách tân rất đa dạng và phụ thuộc vào từng quốc gia. Malaysia và Indonesia đã cắt giảm trợ cấp xăng dầu nhằm giảm áp lực lên ngân sách cũng như củng cố lại niềm tin của các nhà đầu tư. Thói quan tiền cũng như các hạn chế về sở hữu đất đai và doanh nghiệp cản trở đầu tư nước ngoài tại châu Á.
” Tuy nhiên với việc Ấn Độ và Indonesia sẽ tổ chức bầu cử vào năm tới cũng như việc Fed phát đi tín hiệu rằng thời kỳ kết thúc nới lỏng tiền tệ chưa kết thúc thì động lực thực hành đổi thay còn rất hạn chế. Theo số liệu của Cơ quan Năng lượng quốc tế thì khả năng phát điện của Ấn Độ chỉ bằng1/4 so với Trung Quốc.
Dự trữ ngoại hối cũng cao hơn so với thời kỳ 1997-1998 bất chấp việc nhiều nhà nước như Ấn Độ đã phải bán USD để chống đỡ sự mất giá mạnh của nội tệ. Các nhà kinh tế cho biết quyết định nối bơm tiền vào nền kinh tế Mỹ của Fed chỉ là biện pháp mang tính nhất thời – tuy nhiên có thể khiến các nhà hoạch định chính sách ở nước này trì hoãn tiến hành các đổi thay cơ cấu cần thiết cho việc cải thiện tăng trưởng dài hạn trong khu vực.
Nguồn NYTimes/Dân Việt. Ông Taimur Baig – kinh tế trưởng khu vực châu Á của Deutsche Bank ở Singapore lưu ý rằng thời kỳ tạm ổn giờ có thể khiến các quốc gia kìm hãm cải cách tài khóa và tiền tệ.
Ông này cũng cho biết khu vực châu Á có thể ứng phó với vấn đề nợ tăng cao – kể cả khi lãi suất tăng – vấn đề vốn đang làm đau đầu nhiều nhà phân tích. Các nhà nước này lo ngại rằng sự bình phục của giá tài sản có thể làm tái bùng phát các vấn đề như bong bóng giá bất động sản và tăng trưởng tín dụng – vốn đang có dấu hiệu hạ nhiệt ở nhiều quốc gia châu Á.
Tuy nhiên sự phối hợp giữa tăng trưởng năng suất sụt giảm và nợ tăng là không bền vững và sẽ trở thành tồi trong vòng 2-3 năm tới trừ khi các nhà hoạch định chính sách thực thi các cách tân cơ cấu toàn diện.
Bây chừ các nền kinh tế mới nổi ở châu Á đang được “trang bị” tốt hơn so với thời khủng hoảng tài chính 1997-1998. Cắt điện liền ở Ấn Độ đã khiến nhiều doanh nghiệp phải giảm quy mô sản xuất kinh dinh hoặc sử dụng máy nổ chạy dầu diesel vốn rất tốn tiền. Nhiều người lo ngại rằng việc dòng vốn giá rẻ tiếp tục chảy vào cũng như dấu hiệu về sự hồi sinh của Trung Quốc có thể làm trì hoãn hơn nữa các canh tân này.
Cơ sở hạ tầng yếu kém là vấn đề trầm trọng nhất ở Indonesia và Ấn Độ nhưng cũng rất đáng quan hoài ở Việt Nam, Philipines hay Thái Lan. Trợ giá xăng dầu cũng làm cạn kiệt ngân sách của các quốc gia như Ấn Độ, Thái Lan và Malaysia. Các ngân hàng trong khu vực vững mạnh hơn so với thời kỳ 1990s.