Có thể nói, từ khi lên Sài Gòn làm báo viết văn năm 1955 đến khi được có căn nhà mang tên chủ hộ là mình, nhà văn Sơn Nam đã có hơn 30 năm sống ở Sài Gòn trong tư thế của người trắng tay về tài sản vật chất, chỉ có tài sản tinh thần, do bức bách của cuộc sống, phải viết lách để nuôi sống bản thân và gia đình, nên mới có nhiều tác phẩm
Còn tập truyện ngắn "Hương rừng Cà Mau" thì mãi đến sau mùa xuân năm 1962 mới xuất bản, tức là sau gần 7 năm ông từ quê nhà Rạch Giá lên xứ Sài Gòn. Ông đi như một nếp không thể nào bỏ được. Còn lại là tên tác phẩm thôi.
Một con người bình dị đến tuyệt như thế, một con người chân đi không biết mỏi, mà những năm cuối đời phải nằm nhà quả là một. Mãi đến ngày Sài Gòn phóng thích, ông mới trở nên cán bộ sáng tác của Hội Văn nghệ thị thành Sài Gòn - Gia Định, sau đó năm 1981 thì được biên chế chính thức trong đội ngũ cán bộ sáng tác của Hội Nhà văn trước khi nghỉ hưu năm 1992.
Toàn bộ sáng tác cũ mới của ông đều được viết tay hay đánh máy độc bản và được giao cho bộ phận sử dụng liên quan như tòa soạn, nhà xuất bản hay nhà in lưu giữ. Bí ẩn. Một tẹo hồi tưởng để nhớ về ông trong những ngày tháng này sẽ làm chúng ta yêu hơn những trang văn ông để lại cho đời, cho mỗi con người đã đọc ông trên muôn dặm đường đời.
Năm năm những con đường, những cơ quan, những chùa chiền, đền miếu, những đình làng, lễ hội ở phố thị Sài Gòn hay xóm ấp miền Nam thiếu vắng bước chân ông - bước chân của con người trải dài những tri thức đời mình trên những chuyến đi điền dã. Cuốn sách này ra đời sau cuốn "Chuyện xưa tích cũ" in lần đầu năm 1957, sau đó ông cùng với nhà báo Tô Nguyệt Đình cùng đứng tên viết và bổ sung thêm một số mẩu chuyện để có độ dày như bây chừ.
Ông viết từng giai đoạn ngắn, không quan tâm đến việc đặt tên cho từng thời kỳ, khiến biên tập viên là tôi phải hỏi ý ông về tên sách cho mỗi tập khi xuất bản.
Mãi đến khi tôi chính thức chuyển công tác về Hội Nhà văn Tp HCM, thì một trong những công việc hàng đầu phải lo là làm thủ tục cho ông và cho nhà văn Lý Lan nhận nhà. Qua những chuyến đi, hồn đất, hồn sông, hồn người như được khai quật, tô bồi trong lớp lớp phù sa của một thời mở đất.
Những tập hồi ký nhỏ ấy thật ra không nhỏ một tí nào. Về chữ viết, càng về già, chữ viết ông càng sít lại, nhỏ hơn và nhiều khi thiếu nét.
Còn bản thân ông thì lại lưu giữ sách vở của người khác để làm tài liệu tra, phục vụ cho việc viết của ông. Và rồi, khi khả năng viết dài không còn đủ, và cũng theo gợi ý của Nhà xuất bản Trẻ, ông tụ tập viết lại chuyện đời mình từ ấu thơ cho đến lúc bấy giờ, nhằm giúp cho độc giả có thêm cơ sở để tiếp cận với thời và thế. Nhiều người dân nghèo nhập cư nơi ông tạm ở trong những ngày rời gia đình sống lang thang ở Gò Vấp đã có công ăn việc làm, con cái được học hành nhờ vào ý thức Mạnh Thường Quân của ông.
Nghe nói rằng, thời ông quen nhà văn, nhà nghiên cứu Vương Hồng Sển lúc ông mới chân ướt chân ráo lên Sài Gòn, thì cái thư viện nhà ông Sển với thiếu gì tài liệu lưu trữ lý thú là nơi gợi mở cho ông viết cuốn "Tìm hiểu đất Hậu Giang".
Hơn 30 năm quen biết ông, từ họp hội, làm việc cùng cơ quan, cho đến lúc gần như trở thành người "quản lý" tài chính của ông, với tôi - nhà văn Sơn Nam vẫn là một người luôn mang đến điều bất ngờ choáng ngợp.
Ông cứ viết theo từng tuổi, thung dung mà không gò ép, vả chăng ông cũng chẳng đảm đang vai trò quan chức gì to tát trong cuộc thế mình, nên chi hồi ký cũng chẳng có gì phải tô, phải vẽ cho "ra dáng". Chuyện này có được, dường như cũng là nhờ thư tay của ông Sáu Dân Võ Văn Kiệt.
Choáng ngợp trước nhất là hơn 30 năm sống ở Sài Gòn, dù rất nức danh trong "trường văn trận bút", ông vẫn là người đi ở nhà thuê, không một tấc đất chính chủ để cắm dùi.
Được dịp đi ngao du cùng ông về miền Tây, ra Hà Nội trong những ngày hội nghị viết văn tôi càng lúc càng thấy kiến văn của ông quả tình hơn người.
Và vì là thủ lĩnh ở hai quận nên anh Sáu Quang Nguyễn Chơn Trung (Bình Thạnh) và anh Năm Nghị Phạm Chánh Trực (quận 5) phải đảm nhiệm. Chuyện ông đi thuê nhà ở, lúc thoạt đầu nghe thi sĩ Huỳnh Kim nói, tôi cứ ngỡ là chuyện đùa, té ra là sự thật. Khi chưa bị bệnh và trở về nhà ở đường Đinh Tiên Hoàng, mỗi năm khi đến đầu năm học và tới dịp lễ Tết, tôi thấy ông lại đề nghị xuất tiền trong nguồn ngân quỹ do tôi tạm quản lý để mua sách vở, cặp táp và quà bánh tặng các cháu nhỏ nghèo.
Nhà văn Sơn Nam bên bức tượng bán thân của mình do các nghệ sĩ Tp HCM gửi tặng. Mua sách và xin chữ ký thì ông sẵn sàng ký tặng. Ông lại đi, lại đi, hết miền Đông lại về miền Tây. Ông cho rằng, người đọc tôn trọng mình thì đầu tiên phải bỏ tiền túi ra, đồng tiền làm từ công sức lao động của mình mà có.
Sau những hoạt động kỷ niệm 300 năm Sài Gòn - đô thị Hồ Chí Minh với những bài báo, bài viết, cuộc đáp phỏng vấn phát thanh và truyền hình, những buổi trò chuyện ở cơ quan đơn vị, hình ảnh Sơn Nam như không trực trên các công cụ thông báo đại chúng, nhà văn lại trở lại với những hoạt động thường nhật của mình.
Choáng ngợp thứ hai là dù viết khá nhiều sách, nhưng hầu như ở nhà ông không còn quyển sách nào của ông cả, cho dù là một bài báo, hay một mẩu truyện ngắn, một trang bản thảo lưu. Hẳn người dân trong xóm Trũng ở phường 7, Gò Vấp không thể nào quên hình ảnh của ông - nhà văn Sơn Nam.
Có thể nói "Tìm hiểu đất Hậu Giang" là tập sách biên khảo trước tiên được viết dưới dạng văn chương lôi cuốn và hích. Sơn Nam có nếp rất lạ là không bao giờ tặng sách cho ai, dù người đó thân quen đến cỡ nào. Ông thì nhận nhà trệt ở hẻm đường Đinh Tiên Hoàng, quận Bình Thạnh, gần Trường Trung học Võ Thị Sáu; còn Lý Lan thì nhận phòng trong khu nhà góc ngã tư Nguyễn Tri Phương - An Dương Vương, quận 5, gần khu La Kai.
Bất hạnh lớn lao. Nó có số liệu, có chứng dẫn, nhưng vẫn ngồn ngộn chất thi hứng của một người sáng tác, người viết văn hơn là của một nhà khoa học kinh viện. Có thể nói, đối với tôi, nhà văn Sơn Nam là một điều gì đó khôn cùng.
Bình Thạnh thì gần lăng Ông Bà Chiểu cho nhà văn Sơn Nam tiện việc đi lại tham gia Ban tế lễ lăng Lê Văn Duyệt; còn quận 5 thì không xa trọng điểm người Hoa ở Chợ Lớn để nhà văn gốc Hoa Lý Lan không xa cội nguồn.
Hai mươi năm ở Sài Gòn, ông là người làm nghề viết tự do, không trực thuộc một đơn vị quản lý nào cả, cho nên phải tự mình lo cho mình nhiều thứ, chứ chẳng có được sự ưu tiên ưu đãi nào. Hình ảnh một ông già nhỏ thó, kính trắng trễ mũi, điếu thuốc luôn đỏ trên môi, liền tù tù ngồi quán cà phê ở Nhà Văn hóa quận Gò Vấp trên đường Nguyễn Văn Nghi (gần ngã năm Chuồng Chó), trò chuyện với nhiều hạng người, nhiều loại người, hoặc thầm lặng rút vào một góc thư viện để đọc sách và nghiên cứu.
Nhà xuất bản phải đi tìm, đi sưu tập để có được. Dù sao ông cũng giã biệt thế cục, tạm biệt chúng ta đã tròn năm năm. Ông là nhà văn Sơn Nam.
Bốn tập hồi ký với hơn 500 trang in được viết trong vòng hơn 3 năm, trong đó có nhiều đoạn viết tay, đôi đoạn đánh máy, và dăm ba đoạn là được cắt từ một số bài báo rồi chua thêm đôi ba câu dẫn.
Có thể nói hồi ký là 4 tập sách dài hơi chung cục mà nhà văn viết, bởi sau đó ông chỉ viết ngắn, và cho đến năm 2005, sau khi bị tai nạn đụng xe thì gần như chơi viết gì nữa. Có lẽ một phần do điều kiện chỗ ngồi dưng cho phép ông có thư viện riêng ở nhà để tra khảo, nên có thể nói những địa chỉ ông thường tới lui, la cà là những nơi có nhiều sách tham khảo và nhiều tài liệu lưu trữ.
Tôi đọc văn ông từ hồi còn học trung học, nhưng biết và gặp gỡ ông thì phải đến lúc trưởng thành. Dù khó khăn nhiều nhưng chung cuộc bốn tập hồi ký "Từ U Minh đến Cần Thơ", "Ở Chiến khu 9", "Hai mươi năm giữa lòng tỉnh thành" và "Bình An" cũng đã tuần tự ra mắt độc giả.
Bên trong cái thể xác gầy mòn yếu ốm là cả một nghị lực phi thường, một nhân kiệt chăm chỉ giũa mài và một tấm lòng vị tha đến minh mông mông mênh.
Một hình ảnh mà có nhẽ họ sẽ chẳng bao giờ được gặp lại. Bí hiểm đến phút rút cuộc. Nó thật sự là tiếng lòng của người thường dân, đặc biệt là người thường dân cầm bút. Thành ra dù trước giải phóng, lần đầu in tác phẩm nào cũng có những bản đặc biệt, có đánh số hoặc ghi ký hiệu, nhưng chừng như ông không còn bản sách nào trong số đó cả.
Nó dung chứa một thời đoạn lịch sử một cách tương đối khách quan, không nhuốm màu chủ kiến. Ông còn đích thân đến trường để xin cho các cháu được vào học trường công lập bằng uy tín cá nhân chủ nghĩa của mình.
Người biên tập là tôi nhiều khi phải ngồi phiên chữ ra cho rõ để kỹ thuật viên có thể nhập liệu được. Mới đó mà đã năm năm. Thậm chí, khi ký kết giao tất thảy bản quyền tác phẩm của mình cho Nhà xuất bản Trẻ vào tháng 3-2003, ông cũng chỉ giao cho Nhà xuất bản Trẻ thêm chưa tới 10 đầu sách, chưa kể những đầu sách đã in ở Nhà xuất bản Trẻ.