Ban tổ chức cũng bố trí nhiều nhà sư, chú tiểu, các Phật tử là nam thanh niên khỏe mạnh, vạm vỡ làm thành hàng rào danh dự bảo vệ lễ đàn để tăng thêm vẻ trang nghiêm, tôn kính của buổi lễ và sẵn sàng xả thân ứng phó với cảnh sát, mật vụ nếu chúng xông vào
Không nhiều người có may mắn được biết nguyên văn bài điếu do Hòa thượng đọc tại Lễ truy điệu ngày 9-9-1969, do sau khi đọc xong Hòa thượng đã châm lửa hóa ngay văn bản này. Sau cơn suy tim đột ngột, Hòa thượng đã xả báo an tường, thu thần thị tịch lúc 2h30 ngày 1-3-1994 tại trụ xứ chùa Khánh Hưng, trụ thế 81 năm, hạ lạp sang 59 mùa an cư kiết hạ.
Vế thứ hai nói lên tình cảm của dân chúng thế giới khôn xiết kính phục đấng tu mi nam tử. Nghĩ mấy đoạn lệ tràn tràn đầy. Nội dung quan trọng nhất, vấn đề quan yếu nhất của buổi lễ truy điệu là bài điếu văn. Bốn ngày sau, nha Cảnh sát chính quyền Sài Gòn mời Hòa thượng đến thẩm vấn suốt từ 8h sáng đến 5h chiều.
# Cả nước đã biến đau thương thành hành động cách mạng, tiếp chuyện xốc tới giành thắng lợi trên mọi Mặt trận tranh đấu quân sự, chính trị, ngoại giao. Ôi! Lồng lộng trời cao mây phơi phới.
Lư trầm đảnh nhang khói ngát, cung kính lòng ngưỡng đạt trước Chân linh. Đây là nơi duy nhất ở Sài Gòn - Gia Định công khai tổ chức truy điệu Người mặc dù bị địch theo dõi, khủng bố ghét. Tôi đã cầm sắp đặt, tả ý theo thể loại văn tế, xin được đọc như sau: Nam mô Bổn sư Thích Ca Màu Ni Phật bữa nay đứng trước linh bàn, hòa vọng với lửa hương ngùn ngụt, trước Anh linh Người vô vàn kính mến, trọn đời đã vì nước mà quên mình, vì sơn hà và quần chúng, Bác không sợ nguy hiểm tới tính mạng.
# Được tên Bác Hồ trong lễ cầu siêu. Khóc là khóc đấng tài năng lỗi lạc, đuổi xâm lược đòi độc lập - tự do, trọn đời mải lo âu cho dân tộc. Trong tình cảnh chính quyền Sài Gòn o ép, khủng bố gắt, không cho bất kỳ cá nhân chủ nghĩa, đoàn thể nào công khai tổ chức truy điệu Cụ Hồ, Hòa thượng Thích Pháp Lan đã thức trọn đêm, nghĩ ra đôi câu đối: Nam Bắc toàn dân quy thượng chính Á Âu thế giới kính tu mi.
Thinh thinh bể rộng sóng vơi đầy. Cung dung khấu thủ Sau ngày Bác mất, kẻ thù tưởng rằng ý chí đương đầu của quần chúng sẽ suy sụp, cách mệnh sẽ đi vào thoái trào, nhưng với lòng yêu kính vô bờ lãnh tụ Hồ Chí Minh, quần chúng. Một góc chùa Khánh Hưng.
Vế đối thứ nhất nói được tình cảm của toàn dân Việt Nam từ Nam chí Bắc đều quy phục người vĩ nhân chân chính. Theo “HCM Citynet” của UBND TP Hồ Chí Minh, đúng 2h chiều 9-9-1969, chỉ sau Lễ truy điệu chủ toạ Hồ Chí Minh tại Quảng trường Ba Đình, Hà Nội vài tiếng đồng hồ, Lễ truy điệu Người tại chùa Khánh Hưng bắt đầu. Giúp giang san mau được thanh bình, phò sơn hà chóng nên độc lập Cẩn cáo đài tiền.
Ông tiếp hoạt động phụng sự đạo pháp và dân tộc, có nhiều đóng góp cho phong trào đương đầu cách mệnh, sự nghiệp xây dựng khối đại kết đoàn toàn dân và tu chỉnh chùa Khánh Hưng ngày thêm khang trang, tú lệ. Hòa thượng pháp húy Trừng Tâm, pháp danh Thiện Hảo, thế danh là Lê Hồng Phước, sinh năm 1913, quê ở làng Tây An, huyện Tây Sơn, tỉnh Bình Định, xuống tóc quy y từ năm 14 tuổi.
Thấy bọn giặc thêm hận thêm thù. Nếu để ý, cũng có thể thấy dụng ý ở hai từ cuối mỗi vế đối: Chính, Mi nói lái thành Chí Minh, tên Cụ Hồ. Vì lẽ ấy vì vậy Bác quyết ra tay diệt giặc, phấn đấu kiên cường, đánh đuổi kẻ thù, oai danh lẫy lừng, trải sao gian khó cực khổ, lướt gió xông sương, bươn nguồn vượt suối, quyết giữ giàng giang san sơn hà Bác là bậc hào kiệt vô song, trọng trách nhiệm nặng hơn núi cả, tài bặt thiệp khắp toàn cầu Âu - Á, trí thông minh nổi tiếng cả Đông - Tây Tuôn máu đỏ nhuộm cờ hồng, dựng khắp non sông đất Việt Lấy da vàng nêu sao sáng, phất rạng bờ cõi trời Nam.
Nhớ công ơn cảm động can tràng. Nhớ đến Bác càng thương càng khóc.
Năm 1947, Hòa thượng Thích Pháp Lan được cung thỉnh về trụ trì chùa. Chùa Khánh Hưng ngày nay ngụ tại hẻm 390 đường cách mệnh Tháng Tám (thời đó là đường Lê Văn Duyệt), phường 11, quận 3, TP Hồ Chí Minh, được khởi tạo từ cuối thế kỷ XIX, do Phật tử hai vùng Khánh Hội và Hòa Hưng góp tiền của xây nên.
Đọc xong, Hòa thượng châm tờ giấy vào ngọn nến. Hòa thượng Thích Pháp Lan dáng vẻ oai nghiêm, đĩnh đạc chủ lễ, giọng trầm ấm truyền cảm đọc bài điếu văn hoài tưởng Chủ tịch Hồ Chí Minh trong không khí nghiêm túc, thành kính.
Nhớ linh xưa! Bác là đấng Anh hùng vĩ có nhân quốc đã đem từng giọt máu khử loài sâu mọt, mong sao được rạng vẻ giang san. Quê hương còn đó, núi sông còn đó, uất hận thay vật đổi sao dời. Thường nhật bàn thờ có mâm hoa, mâm quả. Đại tá Nguyễn Trần Thiết đã tặng tôi một bản chép lại. Cùng hơn 200 thanh niên, học sinh, bà con Phật tử yêu nước đã tề tựu dự lễ.
Tại cuộc gặp mặt cựu chiến binh Ban Liên hợp quân sự - Trại Davis đầu tháng 8 này, tôi được Đại tá nhà văn Nguyễn Trần Thiết cho biết, bài điếu được Hòa thượng chép làm ba bản, hai bản khác chôn ở hai nơi bí mật nên còn giữ được.
Đại thắng mùa Xuân 1975 kết thúc với thắng lợi của chiến dịch mang tên Bác, miền Nam hoàn toàn phóng thích, giang san hoàn toàn hợp nhất, cả dân tộc bước vào kỷ nguyên mới, thực hành chúc thư của Người: Xây dựng sơn hà ta đàng hoàng hơn, to đẹp hơn. Anh hùng tử khí anh hùng há tử. Là một nhà tu hành yêu nước, trong kháng chiến chống Pháp, Hòa thượng vừa nối công việc tiếp dẫn hậu lai, vừa bí mật tham dự hoạt động cách mạng, được giao cáng đáng an ninh Khu 4 - Mỹ Tho và giữ chức phận Chủ tịch Lực lượng Phật giáo cách mạng Sài Gòn - Gia Định.
Trước lý lẽ sắc bén của Hòa thượng và áp lực của hàng nghìn người dân, Phật tử yêu nước kéo đến đấu tranh, chính quyền Sài Gòn đã phải trả tự do cho Hòa thượng. Nhiều trí thức có tên tuổi ở Sài Gòn như bà luật sư Ngô Bá Thành, luật sư Trần Ngọc Liễng, các vị Nguyễn Long, Dương Văn Đại, Đặng Văn Ký. Bài điếu phải nói được công lao của Bác, tấm lòng của quần chúng. # Hướng về Bác, không dài quá để tránh bị cảnh sát, mật vụ chế độ ngụy quyền phát hiện khủng bố giữa chừng và phải linh hoạt dễ phi tang, không để địch ập vào dùng vũ lực thu mất.
Bài điếu văn được Hòa thượng tẩm sáp ở mặt sau tờ giấy và cho đặt ngay sát nơi đứng chủ lễ hai ngọn nến to.
Năm 1969, được tin Bác Hồ tạ thế, Hòa thượng Thích Pháp Lan hết sức đau xót, mong muốn làm một việc gì đó để tỏ lòng thành kính thương tiếc bậc đại trí, đại nhân, đại dũng của dân tộc.
Sau ngày hợp nhất đất nước năm 1975, Hòa thượng cáng đáng nhiều chức vụ quan yếu trong Giáo hội Phật giáo và chiến trận giang sơn Việt Nam. Hơn 50 năm hóa đạo, Hòa thượng Thích Pháp Lan đã cống hiến vẹn tròn tâm huyết, tài đức cho đạo pháp - dân tộc và lịch sử đương đầu, phát triển nền hòa bình, độc lập, hợp nhất chung cả đời và đạo.
Để che mắt bọn mật vụ tay sai địch, Hòa thượng cho trang trí bàn độc thật khéo, vừa có hình ảnh cờ đỏ sao vàng vừa bày được bài vị chủ toạ Hồ Chí Minh. Nhiều nguồn sử liệu cho thấy, Lễ truy điệu chủ toạ Hồ Chí Minh tại chùa Khánh Hưng, do Hòa thượng Thích Pháp Lan, khi đó là Thượng tọa trụ trì, làm chủ lễ với sự tham dự của hàng trăm người. Tuy đã công phu như vậy, nhưng những người đứng ra tổ chức buổi lễ còn dụng tâm tìm cách trình diễn.
Núi sông còn nhân kiệt vẫn còn. Chiếc bàn thờ tại Lễ truy điệu Bác Hồ do Hòa thượng chủ lễ nay được trưng bày tại bảo tồn Hồ Chí Minh trong khu Bến Nhà Rồng. Năm 1953, Hòa thượng được đề cử làm Tổng Thư ký Tăng đoàn Liên tông Việt Nam. Trên bàn độc, chỗ trang trọng nhất, nơi thường đặt bài vị có mấy chữ Hán “Quốc gia tối thượng”, tức là “Quốc gia trên hết”, cũng có thể hiểu đó là bài vị “Người cao nhất nước nhà”, người đó là Hồ Chí Minh.
Bên mâm hoa, Hòa thượng cho bày bông trang màu đỏ thay cho nền cờ và bông điệp làm ngôi sao vàng.
Bên mâm quả, Hòa thượng bày quả xoài cát Hòa Lộc màu vàng làm ngôi sao và quả mận hồng đào (quả bồng bồng) làm nền cờ. Năm 1963, cùng chư đạo phẩm, tham gia trong Ủy ban Liên phái bảo vệ Phật giáo, Hòa thượng đã tích cực đương đầu chống chế độ độc tài gia đình trị Ngô Đình Diệm đàn áp Phật giáo.